Câu hỏi của bạn đọc CafeLand có nội dung:
Đề phòng hôn nhân không được như ý, tôi định nhờ em gái đứng tên để mua nhà. Luật sư cho tôi hỏi khi đó có rủi ro gì không? Làm thế nào để xác định được đó là tài sản của riêng tôi?
tambt@...
Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Giám đốc Công ty luật TNHH Đức An trả lời bạn như sau:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) là căn cứ chứng minh quyền của chủ sử dụng/sở hữu đối với bất động sản của mình.
Xét theo góc độ pháp lý, việc bạn nhờ đứng tên Giấy chứng nhận là trái với quy định của pháp luật. Khoản 16 điều 3 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
Khi bạn nhờ người đứng tên trên giấy chứng nhận thì Nhà nước thừa nhận quyền sở hữu của người đó đối với nhà, trong khi thực tế họ không phải là chủ sở hữu thực sự của nhà đất. Nếu không chứng minh được, bạn sẽ không được Nhà nước công nhận quyền sở hữu nhà thuộc quyền sử dụng, định đoạt của bạn.
Nếu bạn muốn được xác định là tài sản riêng trong hôn nhân thì theo Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng như sau:
“Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn”.
Do vậy, khi xác lập nên thỏa thuận này, phải thực hiện đúng theo trình tự của pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho hai bên khi có rủi ro xảy ra. Tất nhiên không ai mong muốn ly hôn cả, nhưng nếu xảy ra trường hợp đó, hai bên sẽ không phải tranh chấp về tài sản nữa. Bạn lưu ý khi thỏa thuận cần tránh trường hợp quy định tại Luật Hôn nhân gia đình tại Điều 50. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
1. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;
b) Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này;
c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.