A có 3.000 m2 đất (đã được cấp giấy đỏ) và có hai con. Nay A muốn đến UBND xã lập di chúc để lại đất đó cho người hàng xóm, không cho hai người con thì có được không? Nguyen Thi Hong Nhan (nhanco1978@gmail.com)
Luật sư LÊ BỬU THÀNH trả lời: Theo
Điều 631 Bộ luật Dân sự năm 2005, cá nhân có quyền lập di chúc để định
đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo
pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Tuy nhiên, Điều 669 bộ luật này có lưu ý: “Những người sau đây vẫn
được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo
pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ
không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di
sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận
di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản… : 1. Con chưa
thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; 2. Con đã thành niên mà không có khả
năng lao động”.
Như vậy, A có quyền lập di chúc hợp pháp để lại đất cho người hàng
xóm và nếu hai con của A không thuộc đối tượng nêu trên (còn cha, mẹ, vợ
hoặc chồng của A đã mất hoặc không có) thì người hàng xóm đó được thừa
kế trọn số đất.
Nhận tiền bồi thường đất
Ba tôi có bán giấy tay nhiều miếng
đất. Do tất cả số đất này đều vướng quy hoạch nên các bên không thể đi
công chứng hợp đồng mua bán mà chỉ có thể nhờ tổ trưởng dân phố ký tên
làm chứng. Hỏi: Giấy mua bán đất như thế có giá trị pháp lý hay không?
Sau này Nhà nước bồi thường thì giữa ba tôi là người đứng tên trên giấy
đỏ với người mua đất ai được nhận tiền?
Nguyễn Hoàng Bảo (Vĩnh Lộc B, Bình Chánh, TP.HCM)
Luật sư TRẦN THỊ MIỀN trả lời:
Theo khoản 2 Điều 2 Quyết định số 26 ngày 27-4-2010 của UBND TP.HCM,
đối với hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất tọa lạc tại xã thì cá nhân, tổ chức được
lựa chọn công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại
UBND xã nơi có đất. Theo đó, giấy mua bán đất do các cá nhân tự lập với
nhau được người khác làm chứng không có giá trị pháp lý.
Về đối tượng nhận tiền bồi thường đất: Theo khoản 1 Điều 8 Nghị định
197/2004 thì người có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định
của pháp luật về đất đai là đối tượng được bồi thường đất.
Trường hợp có tranh chấp về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
giữa người đứng tên trên giấy chứng nhận với người khác thì cơ quan chức
năng chỉ bồi thường, hỗ trợ sau khi tranh chấp đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giải quyết bằng quyết định hoặc bản án có hiệu lực pháp
luật.